Huyện Ủy Vụ Bản quán triệt Nghị quyết HN TW7 Khóa XII

Thứ sáu - 27/07/2018 05:42
Sáng ngày 27/7/2018 Ban thường vu Huyện ủy Vụ Bản tổ chức hội nghị học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết TW7 khóa XII
Huyện Ủy Vụ Bản quán triệt Nghị quyết HN TW7 Khóa XII
       Toàn bộ Đảng viên trong Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Vụ Bản  và các Chi bộ trực thuộc Huyện ủy về dự Hội Nghị đầy đủ và đúng giờ. 
       Tại Hội Nghị Đ/c Hoàng Văn Mừng Trưởng phòng GDLLCT Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trực tiếp truyền đạt những điểm chính trong Nghị quyết TW7 tới toàn hội nghị như:

        Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành.
        Kế thừa và phát huy các Nghị quyết trước đây về công tác cán bộ, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã xem xét, thảo luận và thống nhất ban hành Nghị quyết số 26 ngày 19.5.2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là một trong những Nghị quyết rất quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết số 26 có một số điểm mới đáng chú ý sau đây:
       Một là, về quan điểm, Nghị quyết lần này khẳng định rõ cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Mặc dù quan điểm này đã được Đảng ta nhiều lần đề cập, song trong bối cảnh hiện nay khi công tác cán bộ nhiều nơi còn đơn giản, có xu hướng khoán trắng cho ngành tổ chức xây dựng Đảng thì vấn đề này lại hết sức thời sự. Một điểm mới được xác định trong Nghị quyết là đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trở thành một trọng tâm trong công tác cán bộ, là vấn đề hệ trọng của Đảng, phải tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. Như vậy, công tác cán bộ không thể tiến hành theo phong trào mà phải làm thường xuyên, liên tục một cách khoa học. Tiếp cận công tác cán bộ trên quan điểm hiệu quả cũng là vấn đề mới được đặt ra trong Nghị quyết lần này. Từ góc độ hiệu quả cho thấy cần đánh giá cán bộ bằng sản phẩm cụ thể. Đánh giá cán bộ vì thế trở thành khâu đột phá trong công tác cán bộ.

         Nghị quyết cũng bổ sung quan điểm mới, đó là xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế và điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Điểm mới nổi bật của quan điểm này là nhận diện và xác định cách thức giải quyết hai mối quan hệ giữa chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương với xây dựng thể chế, tạo môi trường thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo của cán bộ; giữa phân cấp, phân quyền với kiểm tra, giám sát, ràng buộc quyền hạn với trách nhiệm, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm sai phạm. Trong đó, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một điểm thể hiện tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Trung ương lần này.

          Hai là, về mục tiêu, Nghị quyết Trung ương 7 về công tác cán bộ đã xác định rõ mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược trong thời gian tới phải có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế số, kinh tế tri thức và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đồng thời, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Nghị quyết cũng xác định mục tiêu và tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ trong từng lĩnh vực cho từng giai đoạn. Trong đó, có những chỉ tiêu rất mới như: đến năm 2030, đối với cán bộ cấp chiến lược, yêu cầu phải thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hóa về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác... Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất, kinh doanh hiệu quả; từ 70 - 80% có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.  Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư…

           Ba là, về nhiệm vụ và giải pháp, Nghị quyết nhấn mạnh đến việc nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; Chống chạy chức, chạy quyền; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ. Trong đó có những điểm nhấn rất mới như: Trung ương yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ và đề cao giải pháp kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng trong công tác cán bộ; Coi đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đấu tranh ngăn chặn sự tha hóa quyền lực trong bộ máy công quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

         Một điểm mới nữa, Nghị quyết lần này xác định rõ 2 trọng tâm và 5 đột phá trong công tác cán bộ.  

        Hai trọng tâm là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.

          Năm đột phá là: Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương ở những nơi đủ điều kiện. Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài. Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
    Bên cạnh những vấn đề nêu trên Nghị quyết TW7 cũng làm rõ được vấn đề tiền lương,  cải cách về chính sách BHXH:

Vấn đề cải cách chính sách tiền lương:
      Tiếp tục tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng

      Nghị quyết nêu rõ, trong khu vực Nhà nước, giai đoạn từ năm 2018 đến 2020 sẽ tiếp tục điều chỉnh tăng lương cơ sở, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề. Tuy nhiên, đến năm 2021, mức lương cơ sở sẽ hoàn toàn được bãi bỏ.
Trong khu vực doanh nghiệp, thực hiện tăng mức lương tối thiểu vùng để đến năm 2020, mức lương tối thiểu bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Từ năm 2021, vẫn tiếp tục điều chỉnh lương tối thiểu vùng theo định kỳ.
          Từ 2021, lương Nhà nước bằng lương doanh nghiệp
         Từ năm 2021, mức lương cơ sở và hệ số lương được bãi bỏ, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể, đảm bảo mức lương thấp nhất của cán bộ, công chức phải bằng mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp.
- Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân các vùng của khu vực doanh nghiệp.
- Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
Xây dựng 5 bảng lương mới theo chức vụ, vị trí việc làm
Bao gồm:
- 1 bảng lương chức vụ: Áp dụng với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, không phân biệt bộ, ngành, ban.
- 1 bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ: Áp dụng chung với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo; được xây dựng trên nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức lương như nhau…
- 3 bảng lương với lực lượng vũ trang nhân dân, gồm: 1 bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan và hạ sĩ quan nghiệp vụ công an; 1 bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và 1 bảng lương công nhân quốc phòng, công an.
Bổ sung tiền thưởng trong cơ cấu tiền lương
Cơ cấu tiền lương mới đối với khu vực Nhà nước sẽ bao gồm: Lương cơ bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp (chiếm khoảng 30% tổng quỹ lương); bổ sung tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng 10% tổng quỹ lương của năm, không bao gồm phụ cấp).
Bãi bỏ hàng loạt phụ cấp và khoản chi ngoài lương
Nghị quyết nêu rõ, sẽ tiếp tục áp dụng phụ cấp kiêm nhiệm, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp khu vực nhưng sẽ bãi bỏ các loại phụ cấp khác như: Phụ cấp thâm niên nghề (trừ quân đội, công an, cơ yếu); phụ cấp chức vụ lãnh đạo; phụ cấp công tác đảng, đoàn thể; phụ cấp độc hại, nguy hiểm.
Đồng thời, bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án…
Không áp dụng lương công chức với nhân viên thừa hành, phục vụ
Đối với những người làm công việc thừa hành, phục vụ (yêu cầu trình độ đào tạo dưới trung cấp) sẽ không còn được áp dụng bảng lương công chức, viên chức như quy định hiện nay mà thực hiện thống nhất chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động.
Tiếp tục thí điểm cơ chế tăng thu nhập cho công chức nhiều nơi
Cũng theo Nghị quyết, sẽ mở rộng áp dụng cơ chế thí điểm đối với một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tự cân đối ngân sách và bảo đảm đủ nguồn thực hiện cải cách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội được chi thu nhập bình quân tăng thêm không quá 0,8 lần quỹ lương cơ bản cho cán bộ, công chức thuộc phạm vi quản lý.
Nhà nước không can thiệp vào tiền lương của doanh nghiệp
Nhà nước chỉ công bố mức lương tối thiểu vùng theo tháng và theo giờ, tiền lương bình quân trên thị trường đối với các ngành nghề và hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường lao động mà không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp và người lao động tự thương lương, ký hợp đồng và trả lương gắn với năng suất và kết quả lao động.
Cải cách chính sách BHXH:
  1. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng
  2. Sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt đồng thời với việc điều chỉnh cách tính lương hưu theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác
  3. Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ
  4. Cải cách trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội
  5. Đẩy nhanh quá trình gia tăng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội trong khu vực phi chính thức
  6. Sửa đổi, khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay theo hướng linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, chặt chẽ hơn trong quy định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần, tăng tuổi nghỉ hưu bình quân thực tế của người lao động
  7. Thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình
  8. Sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội
  9. Điều chỉnh tỉ lệ tích luỹ để đạt tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp vớithông lệ quốc tế
  10. Đa dạng hoá danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc an toàn, bền vững, hiệu quả
                 11. Thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm                         việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng đóng hưởng, chia sẻ, bền vững...

Nguồn tin: Thuynongvuban.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Thống kê truy cập
  •  Đang truy cập20
  •  Hôm nay2,626
  •  Tháng hiện tại61,543
  •  Tổng lượt truy cập2,277,486
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây